Luật Đất đai năm 2024 được Quốc hội khóa
XV thông qua tại Kỳ họp bất thường lần thứ 5 vừa qua với nhiều điểm mới nhằm
thể chế hóa toàn diện các chủ trương, chính sách của Đảng, nghị quyết của Quốc
hội, đồng thời tháo gỡ những vướng mắc được rút ra trong tổng kết thực tiễn
việc tổ chức thi hành Luật Đất đai năm 2013 và luật hóa các quy định đã được
thực tiễn chứng minh là phù hợp, góp phần tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, khơi
thông nguồn lực đất đai để phát triển đất nước. Luật đã quán triệt đầy đủ theo
đúng tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Hội nghị lần thứ năm
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, phù hợp với Hiến pháp, đồng bộ, thống
nhất với hệ thống pháp luật hiện hành. Đây là nền tảng cần thiết để đưa nguồn
lực đất đai vào cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát
triển có thu nhập cao như chủ trương của Đảng và Nhà nước.
So với Luật Đất đai năm 2013, Luật Đất
đai năm 2024 gồm 16 chương, 260 điều, trong đó sửa đổi, bổ sung 180/212 điều
của Luật Đất đai năm 2013 và bổ sung mới 78 điều, có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/8/2024 với nhiều điểm mới đáng chú ý như sau:
1. Bổ sung quy định về quyền và nghĩa
vụ của công dân đối với đất đai
- Khác với Luật Đất đai năm 2013, bên
cạnh quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất thì Luật Đất đai năm
2024 còn bổ sung quy định về quyền và nghĩa vụ của công dân đối với đất
đai tại Điều 23, 24, 25. Theo đó, quyền của công dân đối với đất đai gồm:
+ Tham gia xây dựng, góp ý, giám sát
trong việc hoàn thiện và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về đất đai;
+ Tham gia quản lý nhà nước, góp ý,
thảo luận và kiến nghị, phản ánh với cơ quan nhà nước về công tác quản lý, sử
dụng đất đai;
+ Quyền về bình đẳng, bình đẳng giới
trong quản lý, sử dụng đất đai;
+ Tham gia đấu giá quyền sử dụng đất,
đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án có sử dụng đất theo quy định của
pháp luật; đề nghị Nhà nước giao đất, cho thuê đất không đấu giá quyền sử dụng
đất, không đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án có sử dụng đất theo quy
định của pháp luật;
+ Nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho,
nhận thừa kế, nhận góp vốn, thuê quyền sử dụng đất; mua, bán, nhận chuyển
nhượng cổ phần, phần vốn góp là giá trị quyền sử dụng đất theo quy định của
pháp luật;
+ Thực hiện các quyền của người
sử dụng đất theo quy định của Luật này.
- Về quyền tiếp cận thông tin đất đai,
công dân được tiếp cận các thông tin đất đai gồm:
+ Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, các
quy hoạch có liên quan đến sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
quyết định, phê duyệt;
+ Kết quả thống kê, kiểm kê đất đai;
+ Giao đất, cho thuê đất;
+ Bảng giá đất đã được công bố;
+ Phương án bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt;
+ Kết quả thanh tra, kiểm tra, giải
quyết tranh chấp đất đai; kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai, kết
quả xử lý vi phạm pháp luật về đất đai;
+ Thủ tục hành chính về đất đai;
+ Văn bản quy phạm pháp luật về đất đai;
+ Các thông tin đất đai khác theo quy
định của pháp luật.
- Về nghĩa vụ của công dân đối với đất
đai: 1. Công dân có nghĩa vụ phải chấp hành đúng các quy định của pháp luật về
đất đai; 2. Giữ gìn, bảo vệ và phát triển tài nguyên đất; 3. Tôn trọng quyền sử
dụng đất của người sử dụng đất khác4.
Đây là những quy định mới, chưa được
ghi nhận trong Luật Đất đai năm 2013, điều này thể hiện sự tiến bộ của Luật Đất
đai năm 2024. Với các quy định này đã giúp ghi nhận, xác định cụ thể được các
quyền và nghĩa vụ của công dân liên quan đến đất đai, để từ đó giúp bảo vệ kịp
thời, hiệu quả các quyền lợi chính đáng của công dân, cũng như đảm bảo công dân
thực hiện, tuân thủ đúng các nghĩa vụ đặt ra liên quan đến đất đai.
2. Sửa đổi quy định về phân loại đất
Luật Đất đai năm
2024 và Luật Đất đai năm 2013 đều căn cứ vào mục đích sử dụng
đất đai mà phân loại đất đai thành nhóm đất nông nghiệp, nhóm đất phi nông
nghiệp, nhóm đất chưa sử dụng. Tuy nhiên, theo Điều 9 Luật Đất đai năm
2024 không liệt kê các loại đất thuộc đất nông nghiệp khác, không liệt kê
các loại đất thuộc đất phi nông nghiệp khác, đồng thời sửa đổi lại định nghĩa
nhóm đất chưa sử dụng, theo đó nhóm đất chưa sử dụng là đất chưa xác định mục
đích sử dụng và chưa giao, chưa cho thuê. Cách định nghĩa này khác so với cách
định nghĩa theo quy định của Luật Đất đai năm 2013, nhóm đất chưa sử dụng gồm
các loại đất chưa xác định mục đích sử dụng. Việc sửa đổi quy định về phân loại
đất như Luật Đất đai năm 2024 là cần thiết, bởi điều này không chỉ giúp cho
việc phân loại đất đai được thực hiện một cách khoa học, toàn diện mà còn làm
cơ sở để phục vụ hiệu quả lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
3. Thể chế hóa chủ trương, đường lối
của Đảng về chính sách đất đai đối với đồng bào dân tộc thiểu số.
Luật Đất đai năm 2024 đã có những quy
định cụ thể nhằm thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về chính sách đất
đai đối với đồng bào dân tộc thiểu số. Theo đó, tại Điều 16 Luật Đất đai năm
2024 đã quy định các chính sách bảo đảm đất sinh hoạt cộng đồng; giao đất, cho
thuê đất đối với đồng bào dân tộc thiểu số thiếu đất ở, đất sản xuất; trách
nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc xây dựng và thực hiện chính sách hỗ
trợ đất đai đối với đồng bào dân tộc thiểu số.
Luật Đất đai năm 2024 cũng đã quy định
nguồn lực để thực hiện chính sách; đảm bảo quỹ đất để thực hiện chính sách đất
đai đối với đồng bào dân tộc thiểu số; quy định hạn chế một số quyền của người
sử dụng đất đối với các trường hợp được giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích
sử dụng đất theo chính sách hỗ trợ đất đai đối với đồng bào dân tộc thiểu số…
Theo đó, Nhà nước có chính sách hỗ trợ đất đai lần đầu cho cá nhân là người dân
tộc thiểu số thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo tại vùng đồng bào dân tộc thiểu
số và miền núi, phù hợp với phong tục, tập quán, tín ngưỡng, bản sắc văn hóa và
điều kiện thực tế của từng vùng để bảo đảm ổn định cuộc sống như sau: 1. Giao
đất ở trong hạn mức và được miễn, giảm tiền sử dụng đất; 2. Cho phép chuyển mục
đích sử dụng đất sang đất ở trong hạn mức đất đối với đất có nguồn gốc được Nhà
nước giao, cho thuê, công nhận hoặc được thừa kế, tặng cho, nhận chuyển nhượng
quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật; 3. Giao đất nông nghiệp
trong hạn mức không thu tiền sử dụng đất; 4. Cho thuê đất phi nông nghiệp không
phải là đất ở để sản xuất kinh doanh và được miễn, giảm tiền thuê đất.
Đối với người đã được giao đất, cho
thuê đất lần đầu nhưng nay không còn đất hoặc thiếu đất thì được giao tiếp đất
ở, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất sang đất ở trong hạn mức và được miễn,
giảm tiền sử dụng đất; trường hợp không còn hoặc thiếu đất nông nghiệp thì được
giao tiếp đất nông nghiệp trong hạn mức không thu tiền hoặc cho thuê đất phi
nông nghiệp không phải là đất ở để sản xuất, kinh doanh và được miễn, giảm tiền
thuê đất.
Nếu như Luật Đất đai năm 2013 quy định
chính sách đất đai đối với người dân tộc thiểu số như có chính sách về đất ở,
đất sinh hoạt cộng đồng cho đồng bào dân tộc thiểu số phù hợp với phong
tục tập quán, bản sắc văn hóa và điều kiện thực tế của từng vùng; có chính
sách tạo điều kiện cho đồng bào dân tộc thiểu số trực tiếp sản xuất nông nghiệp
ở nông thôn có đất để sản xuất nông nghiệp, thì Luật Đất đai năm 2024
đã quy định chi tiết hơn về các chính sách đất đai đối với đồng bào
dân tộc thiểu số. Điều này cho thấy, Luật Đất đai năm 2024 đã thể chế hóa một
cách đầy đủ, toàn diện theo yêu cầu Nghị quyết số 18-NQ/TW, thể hiện rõ trách
nhiệm của Quốc hội trong ban hành chính sách luôn hướng đến quyền lợi của đồng
bào dân tộc thiểu số và miền núi, luôn vì mục đích không để ai bị bỏ lại phía
sau.
4. Tiếp tục hoàn thiện về quy hoạch,
kế hoạch sử dụng đất
So với Luật Đất đai năm 2013, Luật Đất
đai năm 2024 đã hoàn thiện các quy định về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, đảm
bảo đây là nền tảng của công tác quản lý nhà nước về đất đai. Cụ thể, Luật đã
bổ sung hoàn thiện nguyên tắc lập quy hoạch sử dụng để đảm bảo thống nhất của
hệ thống quy hoạch đất. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được lập ở ba cấp gồm
cấp quốc gia, cấp tỉnh và cấp huyện. Quy hoạch sử dụng đất cấp trên bảo đảm nhu
cầu sử dụng đất của cấp dưới; quy hoạch sử dụng đất của cấp dưới phải phù hợp
với quy hoạch sử dụng đất của cấp trên. Việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất các cấp phải bảo đảm sự tham gia của tổ chức chính trị - xã
hội, cộng đồng, cá nhân; bảo đảm công khai, minh bạch. Quy hoạch sử dụng đất
các cấp được lập đồng thời; quy hoạch sử dụng đất cấp cao hơn phải được quyết
định, phê duyệt trước quy hoạch cấp thấp hơn.
Luật Đất đai năm 2024 tiếp tục quy
định về lập kế hoạch sử dụng đất hằng năm cấp huyện, song nội dung quy định đơn
giản hơn, không yêu cầu phải đưa vào kế hoạch sử dụng đất hằng năm cấp huyện
nhu cầu chuyển mục đích sử dụng đất gắn liền với thửa đất ở của hộ gia đình, cá
nhân. Cùng đó, Luật cũng bổ sung danh mục dự án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
được tách ra từ dự án đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư công trong
nội dung kế hoạch sử dụng đất hằng năm cấp huyện.
Hơn nữa, Luật Đất đai năm 2024 cũng
tăng cường công khai, minh bạch, sự tham gia của người dân trong công tác lập
quy hoạch sử dụng đất thông qua việc tổ chức lấy ý kiến; bổ sung, hoàn thiện
các quy định về việc thực hiện các quyền của người sử dụng đất trong các khu
vực quy hoạch. Theo đó, quy hoạch sử dụng đất đã được công bố mà chưa có kế
hoạch sử dụng đất hằng năm cấp huyện thì người sử dụng đất được tiếp tục sử
dụng và được thực hiện các quyền của người sử dụng đất.
Ngoài ra, Luật Đất đai năm 2024 cũng
quy định, diện tích đất được xác định trong kế hoạch sử dụng đất hằng năm cấp
huyện đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt thu hồi để thực hiện dự án hoặc
phải chuyển mục đích sử dụng đất mà sau 02 năm liên tục được xác định trong kế
hoạch sử dụng đất hằng năm cấp huyện chưa có quyết định thu hồi đất hoặc chưa
được phép chuyển mục đích sử dụng đất thì cơ quan có thẩm quyền phê duyệt kế hoạch
đó phải xem xét, đánh giá điều chỉnh, hủy bỏ và phải công bố việc điều chỉnh,
hủy bỏ để người dân được biết. Trường hợp không điều chỉnh, hủy bỏ hoặc có điều
chỉnh, hủy bỏ nhưng không công bố công khai thì người sử dụng đất không bị hạn
chế về các quyền sử dụng đất đã được pháp luật quy định.
5. Hộ gia đình không thuộc đối tượng
người sử dụng đất
Hiện nay, theo Điều 5 Luật Đất
đai năm 2013 thì người sử dụng đất có bao gồm hộ gia đình. Tuy nhiên, tại
Điều 4 Luật Đất đai năm 2024 quy định về người sử dụng đất thì không có hộ gia
đình. Cụ thể ở khoản 25 Điều 3 Luật Đất đai năm 2024, hộ gia đình sử dụng đất
là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của
pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có quyền sử dụng đất
chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử
dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất trước ngày Luật Đất đai năm 2024 có
hiệu lực thi hành. Do đó, từ năm 2025, Luật Đất đai năm 2024 không còn cấp đất
cho hộ gia đình. Mặt khác, khoản 4 Điều 256 Luật Đất đai năm 2024 quy định,
trường hợp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà
ở và quyền sử dụng đất ở, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
và tài sản khác gắn liền với đất đã cấp cho đại diện hộ gia đình trước ngày
Luật Đất đai năm 2024 có hiệu lực thi hành, nếu các thành viên có chung quyền
sử dụng đất của hộ gia đình có nhu cầu thì được cấp đổi sang Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất và ghi đầy đủ tên các
thành viên có chung quyền sử dụng đất. Việc xác định các thành viên có chung
quyền sử dụng đất của hộ gia đình để ghi tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất do các thành viên này tự thỏa thuận
và chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Việc quy định hộ gia đình không thuộc
đối tượng người sử dụng đất là cần thiết và phù hợp, điều này góp phần vào việc
khắc phục những vấn đề khó khăn, bất cập đã gặp phải trong quá trình thực tiễn
áp dụng. Thực tế, việc định quyền sử dụng đất của hộ gia đình thuộc hình thức
sở hữu chung theo phần và việc xác định phần giá trị sử dụng của từng thành
viên đối với đất chung sẽ dựa theo nguồn gốc tài sản, công sức đóng góp, tạo
lập tài sản của mỗi thành viên trong hộ gia đình đó nhưng thực tế, việc xác
định công sức đóng góp của các thành viên trong hộ gia đình là rất khó khăn,
phức tạp. Trước đây, do đặc điểm và hoàn cảnh lịch sử nên trong một số thời
điểm nhất định, Nhà nước đã quy định giao đất cho hộ gia đình để lao động, sản
xuất và sinh sống. Ngoài ra, có giai đoạn ở nước ta, một số địa phương có chính
sách giãn dân nên các địa phương cũng giao đất ở cho hộ gia đình theo nhân
khẩu. Tuy nhiên, tại thời điểm hiện nay, những chính sách này đã hết hiệu lực
và hộ gia đình cũng không còn là chủ thể sử dụng đất phổ biến được Nhà nước
giao đất, cho thuê đất như trước đây. Vì vậy, việc quy định hộ gia đình không
thuộc đối tượng sử dụng đất theo như Luật Đất đai năm 2024 là thực sự cần
thiết.
6. Mở rộng hạn mức nhận chuyển quyền
sử dụng đất nông nghiệp của cá nhân
Hiện nay, theo Điều 130 Luật Đất
đai năm 2013, hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp của hộ gia
đình, cá nhân không quá 10 lần hạn mức giao đất nông nghiệp của hộ
gia đình, cá nhân đối với mỗi loại đất quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều
129 Luật Đất đai năm 2013. Tuy nhiên, tại Luật Đất đai năm 2024 đã quy
định mở rộng hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp của cá nhân.
Theo đó, hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp của cá nhân theo
Luật Đất đai năm 2024 được quy định nâng lên là không quá 15 lần hạn mức
giao đất nông nghiệp của cá nhân đối với mỗi loại đất quy định tại các khoản 1,
2 và 3 Điều 176 Luật Đất đai năm 2024. Như vậy, so với Luật Đất đai năm
2013 thì Luật Đất đai năm 2024 đã mở rộng hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất
nông nghiệp của cá nhân. Quy định này là một điểm tiến bộ bởi sẽ tạo điều kiện
sử dụng đất nông nghiệp hiệu quả hơn, từ đó thúc đẩy ngành nông nghiệp ngày
càng phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực
quốc gia, bộ mặt nông thôn ngày càng đổi mới.
7. Thống nhất tên gọi Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất đối với sổ đỏ, sổ hồng
Tùy theo từng giai đoạn, ở Việt Nam có
các loại giấy chứng nhận như Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở; Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở.
Từ ngày 10/12/2009, Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành mẫu giấy chứng nhận
mới áp dụng chung trên phạm vi cả nước với tên gọi Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (giấy chứng nhận
có bìa màu hồng). Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành kế
thừa tên gọi này. Tại khoản 16 Điều 13 Luật Đất đai năm 2013 nêu rõ: "Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất". Hiện
nay, tên gọi chính xác của sổ đỏ, sổ hồng là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. Tuy nhiên, theo quy
định của Luật Đất đai năm 2024 thì từ ngày 01/01/2025, sổ đỏ, sổ hồng sẽ
có tên gọi theo quy định là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài
sản gắn liền với đất. Theo đó, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
tài sản gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất. Tài sản gắn liền với đất được cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất là nhà
ở, công trình xây dựng gắn liền với đất theo quy định của pháp luật.
8. Bổ sung quy định về phát triển,
quản lý và khai thác quỹ đất
Luật Đất đai năm 2024 đã bổ sung
các quy định về phát triển, quản lý và khai thác quỹ đất từ Điều 112 đến Điều
115, trước đó nội dung này không có trong Luật Đất đai năm 2013. Cụ thể,
Luật Đất đai năm 2024 quy định việc phát triển, quản lý và khai thác quỹ đất
phải theo quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất, sử dụng đất đúng mục
đích, công khai, minh bạch, hợp lý, hiệu quả và theo quy định của pháp luật;
bảo đảm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, hỗ trợ tái định cư, an
sinh xã hội, bố trí đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số để thực
hiện chính sách theo quy định. Nếu thực hiện được nguyên tắc này thì tổ chức
phát triển quỹ đất của Nhà nước sẽ trở thành nhà cung cấp quỹ đất lớn nhất trên
thị trường sơ cấp đất đai phục vụ đầu tư phát triển kinh tế - xã hội.
9. Quy định cụ thể việc giao đất, cho
thuê đất thông qua đấu giá quyền sử dụng đất; giao đất, cho thuê đất thông qua
đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư có sử dụng đất
So với Luật Đất đai năm 2013, tại
Chương IX của Luật Đất đai năm 2024 đã quy định cụ thể việc “giao đất, cho thuê
đất thông qua đấu giá quyền sử dụng đất” (Điều 125) đối với “đất sạch” do Nhà
nước tạo lập; hoặc “giao đất, cho thuê đất thông qua đấu thầu lựa chọn nhà đầu
tư thực hiện dự án đầu tư có sử dụng đất” (Điều 126) đối với “đất chưa giải
phóng mặt bằng” mà “nhà đầu tư trúng đấu thầu có trách nhiệm ứng vốn để thực
hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền” và trong thời hạn 36 tháng kể từ ngày ban hành quyết định công nhận kết
quả trúng đấu thầu hoặc thời hạn khác theo hợp đồng đã ký kết với cơ quan nhà
nước có thẩm quyền, Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền phải thực hiện xong việc
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư để giao đất, cho thuê đất đối với nhà đầu tư
trúng đấu thầu. Quy định này đã bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất với quy định
của Chương VIII về “phát triển, quản lý và khai thác quỹ đất”. Những nội dung
này đảm bảo được lợi ích hợp pháp, chính đáng của người sử dụng đất cũng như
nhà đầu tư. Theo đó, người sử dụng đất có đất bị thu hồi sẽ được bồi thường
theo đúng giá thị trường, được bố trí tái định cư theo hướng ưu tiên được tái
định cư tại chỗ, không còn xảy ra tình trạng nhà đầu tư được ai đó “chống lưng”
để “mua rẻ” đất của dân. Đối với nhà đầu tư, quy định trên giúp đảm bảo được
lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhà đầu tư, giúp nhà đầu tư biết rõ chi phí và
thời gian thực hiện hoàn thành bồi thường giải phóng mặt bằng và được giao đất
để thực hiện dự án, không còn xảy ra tình trạng “đầu nậu” núp bóng sau lưng
“chủ đất” gây khó dễ cho nhà đầu tư. Ngoài ra, quy định này còn góp phần xây
dựng được môi trường đầu tư minh bạch, công bằng, cạnh tranh lành mạnh, từ đó
làm tăng chỉ số năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam.
10. Quy định cụ thể trường hợp thu hồi
đất để phát triển kinh tế - xã hội
So với Luật Đất đai năm 2013, Luật Đất
đai năm 2024 đã quy định cụ thể các trường hợp Nhà nước thu hồi đất để phát
triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Cụ thể, tại Điều 79 Luật
Đất đai năm 2024 đã quy định 31 trường hợp Nhà nước “thu hồi đất để phát triển
kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng”. Bên cạnh đó, Luật cũng đã quy
định cụ thể về trình tự, thủ tục thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì
lợi ích quốc gia công cộng với nhiều điểm mới, bảo đảm dân chủ, khách quan,
công bằng, công khai, minh bạch, kịp thời và đúng quy định của pháp luật; vì
lợi ích chung của cộng đồng và vì sự phát triển bền vững, văn minh và hiện đại
của cộng đồng, của địa phương. Đặc biệt, tại khoản 32 Điều 79 Luật Đất đai năm
2024 còn quy định: “Trường hợp thu hồi đất để thực hiện dự án, công trình vì
lợi ích quốc gia, công cộng không thuộc các trường hợp quy định từ khoản 1 đến
khoản 31 của Điều này thì Quốc hội sửa đổi, bổ sung các trường hợp thu hồi đất
của Điều này”. Quy định này giúp đảm bảo được tính công khai, minh bạch, dễ
giám sát và khắc phục được tình trạng có một số trường hợp địa phương thu hồi
đất tràn lan như đã xảy ra trước đây. Đồng thời, Chương VII Luật Đất đai năm
2024 cũng đã quy định chặt chẽ về công tác “bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất” để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của
người có đất bị thu hồi. Đặc biệt, Luật Đất đai năm 2024 đã xác định các nguyên
tắc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, trong đó có
nguyên tắc khu tái định cư phải hoàn thiện các điều kiện về hạ tầng kỹ thuật,
hạ tầng xã hội đồng bộ theo quy hoạch chi tiết được cơ quan có thẩm quyền phê
duyệt; đồng thời phải phù hợp với truyền thống văn hóa, phong tục tập quán của
cộng đồng dân cư nơi có đất thu hồi và việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư và việc bố trí tái định cư phải được hoàn thành trước khi có
quyết định thu hồi đất.
11. Bổ sung quy định về nguyên tắc,
điều kiện tách thửa đất, hợp thửa đất
Hiện nay, Luật Đất đai năm
2013 không quy định nguyên tắc, điều kiện tách thửa đất, hợp thửa đất. Tuy
nhiên, đến Luật Đất đai năm 2024 đã bổ sung quy định về nguyên tắc,
điều kiện tách thửa đất, hợp thửa đất tại Điều 220. Việc bổ sung quy định về
nguyên tắc, điều kiện tách thửa đất, hợp thửa đất tại Luật Đất đai năm 2024 là
điều cần thiết, với việc cụ thể hóa các nguyên tắc, điều kiện trong Luật như
vậy sẽ tạo được nền tảng pháp lý quan trọng, từ đó giúp cho việc tách thửa, hợp
thửa đất sẽ được thực hiện hiệu quả, an toàn, đầy đủ trên cơ sở phù hợp với
tinh thần pháp luật đề ra.
12. Được sử dụng đất để thực hiện dự
án nhà ở thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất hoặc đang có quyền sử
dụng đất
Một trong những điểm mới nổi bật trong
Luật Đất đai năm 2024 là được sử dụng đất để thực hiện dự án nhà ở thông qua
thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng đất. Theo tinh
thần quy định tại điểm b khoản 1 và khoản 6 Điều 127 Luật Đất đai năm 2024 thì
được thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử
dụng đất đối với đất ở; được sử dụng quyền sử dụng đất đang có để thực hiện dự
án nhà ở thương mại đối với đất ở hoặc đất ở và đất khác. Trường hợp cần thiết,
đề nghị Chính phủ nghiên cứu, xây dựng đề án thí điểm trình cấp có thẩm quyền
để trình Quốc hội xem xét ban hành Nghị quyết cho phép thí điểm thực hiện dự án
nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất hoặc đang có
quyền sử dụng đất khác quy định của Luật. Đây là một quy định rất thông
thoáng về việc sử dụng đất để thực hiện dự án phát triển kinh tế - xã hội thông
qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng đất đối với
hầu hết các dự án phát triển kinh tế - xã hội bao gồm cả dự án nhà ở xã hội,
chỉ trừ một số hạn chế đối với dự án nhà ở thương mại. Điều này sẽ tạo điều
kiện sử dụng đất rất thuận lợi để thúc đẩy sự phát triển của đất nước.
13. Phân cấp, phân quyền, đơn giản thủ
tục trong quản lý, sử dụng đất
Luật Đất đai năm 2024 tiếp tục phân
cấp thu hồi đất cho địa phương, đẩy mạnh phân cấp cho Ủy ban nhân dân cấp
huyện. Bỏ quy định phải trình Thủ tướng Chính phủ có văn bản chấp thuận đối với
dự án có sử dụng đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng vào các
mục đích khác mà không thuộc trường hợp được Quốc hội quyết định, Thủ tướng
Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư. Đồng thời, phân cấp cho Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh quyết định chuyển mục đích đối với dự án có sử dụng đất trồng lúa,
đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng vào các mục đích khác đối với các dự án
này. Luật Đất đai năm 2024 cũng quy định rõ về công bố, công khai các thủ tục
hành chính về đất đai; trách nhiệm thực hiện thủ tục hành chính về đất đai;
trình tự thủ tục cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; trình tự, thủ tục giao
đất, cho thuê đất. Đồng thời, Luật đã bổ sung một chương về Hệ thống thông tin
quốc gia về đất đai và cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai với các quy định về trách
nhiệm, thời gian các bộ, ngành và các địa phương đưa hệ thống cơ sở dữ liệu đất
đai vào vận hành, khai thác. Cùng đó, Luật cũng đưa ra quy định kết nối liên
thông cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai với cơ sở dữ liệu của các
bộ, ngành có liên quan và quy định về dịch vụ công trực tuyến và giao dịch
điện tử về đất đai cũng được ghi nhận nhằm tạo công cụ để người dân, doanh
nghiệp có thể truy xuất, kiểm tra quá trình giải quyết thủ tục hành chính về
đất đai của cơ quan giải quyết thủ tục trên môi trường điện tử.
14. Về tài chính đất đai, giá đất
Luật Đất đai năm 2024 đã bỏ quy định
về khung giá đất của Chính phủ; quy định cụ thể nguyên tắc, căn cứ, phương pháp
định giá đất. Luật cũng quy định bảng giá đất được xây dựng hằng năm và
bảng giá đất lần đầu được công bố và áp dụng từ ngày 01/01/2026 và được điều
chỉnh, sửa đổi, bổ sung từ ngày 01/01 của năm tiếp theo. Luật Đất đai năm 2024
còn quy định cụ thể thời điểm xác định giá đất, thời điểm tính tiền sử dụng
đất, tiền thuê đất đối với từng trường hợp giao đất, cho thuê đất, cho phép
chuyển mục đích sử dụng đất, gia hạn sử dụng đất, chuyển hình thức sử dụng đất
điều chỉnh quyết định giao đất, cho thuê đất mà làm thay đổi diện tích, mục
đích sử dụng đất, thời hạn sử dụng đất. Cũng theo quy định mới của Luật Đất đai
năm 2024, Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền phải ban hành quyết định giá đất cụ
thể trong thời gian không quá 180 ngày kể từ thời điểm xác định giá đất. Ngoài
ra, Luật Đất đai năm 2024 cũng bổ sung quy định tiền thuê đất hằng năm được áp
dụng ổn định cho chu kỳ 5 năm, tính từ thời điểm Nhà nước quyết định cho thuê
đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất. Tiền thuê đất cho chu kỳ tiếp theo
được tính căn cứ bảng giá đất của năm xác định tiền thuê đất tiếp theo. Luật
cũng phân cấp thẩm quyền quyết định giá đất cụ thể cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân
cấp huyện, đồng thời quy định cụ thể các phương pháp định giá đất trong luật,
quy định điều kiện áp dụng đối với từng phương pháp định giá đất; giao Chính
phủ quy định phương pháp định giá đất khác sau khi được sự đồng ý của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội. Đặc biệt, Luật Đất đai năm 2024 cũng quy định cho phép các
địa phương đã có bảng giá đất tới từng thửa đất trên cơ sở vùng giá trị, thửa
đất chuẩn thì được sử dụng bảng giá đất tại thời điểm định giá đất để áp dụng
cho giá đất cụ thể. Đây là một điểm mới trong tài chính đất đai của Luật này,
điều này khuyến khích các địa phương tăng cường đầu tư kinh phí, nhân lực, giải
pháp để xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai theo luật./.
![Anh-tin-bai](https://datafiles.nghean.gov.vn/nan-ubnd/4151/quantritintuc20248/Ảnh đất đai638581876743801249.jpg)